Chương 46: Những lời cuối cùng của thuyền trưởng Nê-mô
Cảnh tượng ghê sợ chấm dứt, cửa sổ đã đóng lại, nhưng đèn phòng khách chưa bật sáng. Bên trong tàu Nau-ti-lúx im phăng phắc và tối om. Tàu chạy hết sức nhanh ra khỏi chỗ đau thương vừa rồi ở độ sâu một trăm mét. Nó đi đâu? Xuống phía nam hay lên phía bắc? Tôi trở về phòng riêng. Nét và Công-xây đang ngồi ở đó và chẳng nói năng gì...
Đến 11 giờ, đèn điện bật sáng. Tôi sang phòng khách. Chẳng có ai ở đó. Tôi nhìn các máy móc. Tàu Nau-ti-lúx đang chạy về phía bắc với tốc độ hăm nhăm hải lý một giờ, khi thì trên mặt biển, khi thì ở dưới độ sâu mươi mét. Theo những dấu ghi trên bản đồ, tôi thấy tàu đã chạy ngang qua biển Măng-sơ và lao rất nhanh về phía bắc. Đến chiều, tàu đã đi được hai trăm hải lý trên Đại Tây Dương. Trời đã hoàng hôn, nhưng trăng chưa lên nên biển bị bóng tối bao phủ. Cảnh tượng khủng khiếp vừa qua lúc nào cũng ám ảnh tôi. Từ hôm nay, ai có thể biết tàu Nau-ti-lúx sẽ đưa chúng tôi đến đâu trong khu vực Bắc Đại Tây Dương này?... Tôi chẳng biết bao thời gian đã trôi qua. Thời gian đã ngừng lại trên các đồng hồ của tàu. Hình như ngày và đêm không nối tiếp nhau một cách bình thường nữa. Tôi đoán -có thể sai -rằng tàu Nau-ti-lúx đã chạy được mười lăm hay hai mươi ngày. Và chẳng biết nó còn chạy tiếp bao lâu nữa, nếu không xảy ra một tai nạn lớn kết thúc cuộc hành trình này. Thuyền trưởng Nê-mô chẳng thấy tăm hơi đâu. Viên thuyền phó cũng vậy. Không một thủy thủ nào xuất hiện, dù chỉ một giây. Tàu Nau-ti-lúx gần hết thời gian ở dưới mặt biển. Khi nó nổi lên để lấy không khí, cửa sổ mở ra đóng vào một cách tự động. Trên bản đồ không có một dấu ghi nào. Tôi chẳng biết tàu hiện đang ở đâu. Nét Len vì kiệt sức và nản lòng nên cũng tránh mặt, Công-xây không cậy được ở Nét một lời, nên sợ trong cơn quẫn trí hay nhớ quê hương quá, Nét sẽ tự sát, Công-xây bám chặt Nét không rời một phút. Ai cũng hiểu rằng trong những điều kiện như vậy, chúng tôi thực không chịu đựng nổi. Một buổi sáng, khó nói là ngày bao nhiêu, tôi chợp mắt đi trong một giấc ngủ nặng nề, đau đớn. Khi tỉnh dậy, tôi thấy Nét cúi xuống người tôi thì thào:
-Ta trốn đi thôi! Tôi bật dậy hỏi:
-Bao giờ?
-Ngay đêm nay. Hình như tàu Nau-ti-lúx chẳng còn ai trông nom nữa. Có thể nói, mọi hoạt động trên tàu đều đã ngừng. Ngài sẽ chuẩn bị sẵn sàng chứ?
-Vâng. Nhưng chúng ta đang ở đâu?
-Đang ở gần đất liền. Sáng nay, tôi đã nhìn thấy đất liền qua sương mù, cách tàu hai mươi hải lý về phía đông.
-Đó là đất nào?
-Tôi không rõ, nhưng dù đất nào thì ta cũng sẽ tìm được chỗ trú chân.
-Đúng vậy, đêm nay chúng ta sẽ trốn, dù có bị chết đuối ngoài biển.
-Biển động gió to. Nhưng vượt hai mươi hải lý trên chiếc xuồng con của tàu Nau-ti-lúx, tôi chẳng hãi gì. Tôi có thể bí mật cất giấu một ít lương thực và mấy chai nước vào xuồng.
-Tôi sẽ theo ông, ông Nét ạ.
-Nếu bị lộ thì tôi sẽ chống cự lại đến cùng.
-Chúng ta sẽ sống chết có nhau, ông Nét ạ. Nét đi ra. Tôi lên boong, nhưng vất vả lắm mới đứng được vì sóng lắc rất mạnh. Bầu trời không hứa hẹn điều gì tốt lành, nhưng một khi đã nhìn thấy đất liền, thì phải trốn ngay, không được chậm một ngày, một giờ nào. Tôi quay về phòng khách, trong lòng vừa sợ vừa muốn gặp thuyền trưởng Nê-mô. Tôi sẽ nói gì với ông ta? Liệu tôi có che giấu được nỗi kinh hoàng mà ông ta đã gây cho tôi không? Không! Thế thì tốt hơn là không nên chạm trán bây giờ! Tốt hơn là nên quên ông ta đi!... Cái ngày cuối cùng trên tàu Nau-ti-lúx này sao dài thế! Tôi còn lại một mình. Nét và Công-xây tránh gặp tôi để khỏi bị lộ. Đến sáu giờ, tôi ngồi vào bàn ăn dù chẳng thấy đói chút nào. Nhưng tôi tự ép mình ăn vì không muốn bị đuối sức đi. Đến sáu giờ rưỡi, Nét vào phòng tôi và nói:
-Từ nay đến lúc xuất phát, chúng ta sẽ không gặp nhau nữa. Đến mười giờ đêm vẫn chưa có trăng đâu. Chúng ta sẽ lợi dụng trời tối. Giáo sư hãy đến chỗ để xuồng. Công-xây và tôi sẽ chờ ở đó. Nét rút lui ngay, chẳng chờ tôi trả lời nữa. Tôi muốn kiểm tra lại hướng đi của tàu Nau-ti-lúx, nên sang phòng khách. Tàu phóng như tên bắn về phía đông-bắc ở độ sâu năm mươi mét. Lần cuối cùng tôi nhìn kỳ quan của thiên nhiên, những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời chen chúc nhau trong phòng bảo tàng này, nhìn những bộ sưu tập có một không hai, đến ngày nào đó sẽ bị mất đi cùng với người đã tìm kiếm ra nó. Tôi muốn in sâu mãi mãi những vật quý đó vào ký ức. Tôi đứng nhìn suốt một tiếng đồng hồ. Sau đó, tôi trở về phòng riêng rồi mặc bộ đồ đi biển không thấm nước. Tôi thu thập những sổ ghi và giấu kín trong người. Tim tôi đập thình thịch. Vẻ lúng túng và xúc động của tôi tất nhiên không thể lọt qua mắt thuyền trưởng Nê-mô. Nê-mô đang làm gì lúc này? Tôi đến gần cánh cửa thông qua sang phòng ông ta. Có tiếng chân người bên đó. Đó là Nê-mô. ông ta không ngủ. Mỗi cử động nhỏ của Nê-mô khiến tôi tưởng tượng rằng ông ta sắp xuất hiện trước mặt tôi và hỏi:
"Vì sao ngài lại muốn chạy trốn?" Tôi sợ hãi từng tiếng động nhỏ. óc tưởng tượng càng tăng thêm nỗi khiếp sợ của tôi. Tình trạng căng thẳng ấy lên tới mức độ khiến tôi mấy lần tự hỏi: hay là ta sang phòng Nê-mô và nhìn thẳng vào mặt ông ta mà thách thức? Thật là một ý nghĩ điên rồ! Cũng may là tôi tự kìm lại được và trở về phòng, nằm xuống giường cho thể xác đỡ mệt mỏi. Thần kinh tôi dịu xuống, nhưng óc thì vẫn làm việc.
Những kỷ niệm trên tàu Nau-ti-lúx lướt qua rất nhanh. Tôi nhớ lại tất cả những sự kiện đã xảy ra từ khi tôi bị văng ra khỏi tàu Lin-côn: những cuộc đi săn ngầm dưới biển, eo Tô-rex, bờ biển Pa-poa, nghĩa trang san hô, kênh đào Xuy-ê, vũng biển Vi-gô, lục địa át-lan-tích, Nam cực, trận chiến đấu với bạch tuộc, cơn bão ở dòng biển Gơn-xtơ-rim, tàu "Báo thù" và chiếc tàu chiến bị đắm cùng toàn bộ thủy thủ. Tất cả những sự kiện đó diễn lại trước mắt tôi như phông cảnh di động ở rạp hát. Và trên cái phông cảnh độc đáo ấy nổi bật lên hình dáng của thuyền trưởng Nê-mô. ông ta không còn là người thường, mà là kẻ ngự trị sóng nước, là thần biển! Đã chín rưỡi. Tôi lim dim mắt và lấy tay ôm đầu cho khỏi vỡ tung ra. Tôi chẳng muốn nghĩ gì nữa. Còn phải chờ đợi nửa tiếng, nửa tiếng đồng hồ đầy ác mộng khiến tôi phát điên lên được! Lúc đó, tôi nghe thấy tiếng đại phong cầm huyền ảo, tiếng đàn buồn thảm như một tiếng hát thê lương. Tôi lắng nghe và bị tiếng đàn tuyệt diệu lôi cuốn đi như nó đã từng lôi cuốn thuyền trưởng Nê-mô vào một thế giới khác. Nhưng tôi bỗng hoảng sợ khi thấy Nê-mô sang phòng khách, mà muốn chạy trốn thì tôi phải qua đó. Tôi sẽ gặp ông ta lần cuối. Nê-mô sẽ thấy tôi và có thể sẽ nói chuyện với tôi. Nê-mô có thể giết tôi bằng một cử chỉ, cột chặt tôi vào tàu Nau-ti-lúx bằng một lời nói! Sắp mười giờ. Đã đến lúc phải ra khỏi phòng để gặp Nét và Công-xây. Dù thuyền trưởng Nê-mô có đứng ngay trước mặt, cũng không thể do dự được. Tôi mở cửa rất cẩn thận, nhưng vẫn cảm thấy nó kêu to quá.
Có lẽ tiếng cót két đó chỉ là do tôi tưởng tượng ra. Tôi bắt đầu bò theo các hành lang tối mò trong tàu, luôn luôn phải dừng lại để tim đỡ đập mạnh. Tôi mò đến cánh cửa ở góc phòng khách rồi khẽ hé mở. Trong phòng khách tối om. Tiếng đại phong cầm thoảng nhẹ. Nê-mô đang ngồi đó. ông ta không thấy tôi. Tôi bò trên tấm thảm mềm, cố không vấp phải cái gì vì một tiếng động nhỏ cũng có thể làm lộ. Mất năm phút tôi mới tới được chỗ cửa chính thông sang thư viện. Tôi sắp mở cửa thì bỗng tiếng thở dài của Nê-mô làm tôi nằm chết dí tại chỗ. Tôi biết là ông ta đang đứng dậy. Tôi nhìn thấy cả người ông ta, tuy không rõ lắm, nhờ một tia sáng từ bên phòng khách lọt sang. Nê-mô đi về phía tôi, trầm lặng, tay khoanh trước ngực. Ngực ông ta phập phồng, nức nở. Tôi nghe thấy tiếng nói của Nê-mô, những lời cuối cùng mà tôi nghe được:
-Ôi, thế là đủ rồi! Đủ rồi! Cái gì vậy? Tiếng nói của lương tâm hay tiếng kêu của tâm hồn con người đó? Trong sự kinh hoàng tột độ, tôi vọt sang thư viện trèo lên cầu thang trung tâm rồi chạy đến chỗ để xuồng. Tôi chui vào xuồng qua một lỗ hổng. Trong xuồng đã có Nét và Công-xây rồi.
-Ta đi thôi, đi thôi! -Tôi giục.
-Đi ngay đây! -Nét trả lời.
Chúng tôi đậy lỗ hổng ở vỏ tàu lại rồi vặn chặt ê-cu. Sau đó chúng tôi đậy kín lỗ hổng ở xuồng rồi Nét tháo ê-cu gắn xuồng với tàu Nau-ti-lúx. Trong tàu bỗng có tiếng người gọi nhau í ới. Có chuyện gì vậy? Họ phát hiện ra chúng tôi rồi chăng? Nét đưa cho tôi một con dao găm. Tôi khẽ nói:
-Đúng, chúng ta biết chết một cách xứng đáng! Nét tạm ngừng công việc. Lúc đó tôi nghe thấy một tiếng kêu, được nhắc lại độ hai mươi lần, một tiếng kêu khủng khiếp, nhờ đó mà tôi hiểu rõ ngay vì sao thủy thủ tàu Nau-ti-lúx lại nhốn nháo.
-Man-xtơ-rim! Man-xtơ-rim!
Trong hoàn cảnh khốn khổ của chúng tôi, còn tiếng kêu nào nghe khủng khiếp hơn thế không? Thế là tàu đã lọt vào vùng biển nguy hiểm nhất của Na-uy. Từ lâu, người ta đã biết rằng khi triều dâng lên giữa nhóm đảo Lô-phô-đen và nhóm đảo Phê-rô thì nước biển ở đây bị ép lại và biến thành một dòng thác khổng lồ. Giữa dòng thác đó hình thành một vũng nước xoáy mà chưa một tàu thuyền nào thoát ra khỏi. Từ bốn phía chân trời xô tới những đợt sóng khủng khiếp. Chính những đợt sóng ấy tạo thành vực thẳm Man-xtơ-rim mà người ta gọi rất đúng "cái rốn của Đại Tây Dương". Vùng nước xoáy mạnh đến nỗi hút vào tất cả mọi vật trong khoảng mười lăm ki-lô-mét. Nó nuốt cả tàu bè, cả cá voi và gấu trắng của vùng Bắc cực. Tàu Nau-ti-lúx đã rơi vào vực thẳm đó một cách vô tình và cũng có thể là do ý muốn của thuyền trưởng Nê-mô. Nó quay tròn theo hình xoáy ốc mà bán kính ngày càng ngắn lại. Chiếc xuồng con của chúng tôi tất nhiên cũng quay với tốc độ ghê gớm như vậy. Chúng tôi kinh hoàng, máu trong người như ngừng chảy, phản ứng thần kinh biến mất, mồ hôi toát ra lạnh ngắt như người đang hấp hối! Xung quanh chiếc xuồng mỏng manh của chúng tôi là tiếng gầm thét vang vọng nhiều dặm xa, là tiếng sóng gào đập vào những mỏm đá nhọn mà những vật rắn chắc nhất va vào cũng tan thành mảnh vụn...
Tàu Nau-ti-lúx vật lộn như một con người. Những bắp thịt thép của nó kêu răng rắc. Thỉnh thoảng nó lại nổi bềnh lên, chúng tôi cũng lên theo. Nét nói:
-Phải bám chắc lấy tàu và vặn ê-cu lại! Còn bám được vào tàu thì ta còn khả năng thoát nạn!... Nét chưa dứt lời thì ê-cu bị bật tung ra. Chiếc xuồng bị hất xuống vùng nước xoáy! Đầu tôi bị đập mạnh vào khung xuồng bằng sắt. Tôi ngất đi.
Chương 47: kết luận
Cuộc hành trình của tôi đến đây là hết. Chuyện gì đã xảy ra đêm ấy, chiếc xuồng của chúng tôi làm sao ra khỏi vùng nước xoáy khủng khiếp ấy, vì sao Nét Len, tôi và Công-xây thoát khỏi vực thẳm ấy? Tôi không thể biết được. Nhưng khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trong túp lều của một người đánh cá ở đảo Lô-phô-đen. Cả hai bạn tôi đều bình yên vô sự. Họ ngồi cạnh tôi và nắm chặt tay tôi. Chúng tôi hôn nhau thắm thiết. Lúc đó chúng tôi không thể nghĩ đến chuyện về Pháp. Tàu chở khách giữa miền Bắc và miền Nam Na-uy thường rất hiếm. Đành phải chờ chuyến tàu chạy hai tháng một lần đến mũi biển bắc. Trong thời gian nương nhờ những người dân chài đáng mến, tôi xem lại câu chuyện kể về cuộc phiêu lưu của chúng tôi. Câu chuyện này thật chính xác, không bỏ sót một sự việc nào, không thổi phồng một chi tiết nào. Đó là câu chuyện xác thực về một cuộc thám hiểm rất kỳ lạ dưới lòng biển chưa ai đặt chân tới. Những sự tiến bộ của văn hóa sẽ biến nơi đó thành những con đường tự do, ai đến cũng được. Vấn đề đặt ra là không biết mọi người có tin tôi không? Thật ra, cũng không quan trọng lắm. Tôi có thể khẳng định một điều là giờ đây tôi có quyền nói về những đáy biển sâu, nơi tôi đã vượt hai vạn dặm và đi vòng quanh thế giới trong không đầy mười tháng. Chuyến đi này đã cho thấy bao điều kỳ diệu ở ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, ở biển Đỏ và Địa Trung Hải, ở Đại Tây Dương và các biển miền bắc, miền nam. Nhưng còn tàu Nau-ti-lúx? Chẳng biết nó có chống chọi được với vùng nước xoáy Man-xtơ-rim không? Thuyền trưởng Nê-mô còn sống không? Nê-mô vẫn cho tàu chạy dưới biển sâu và tiếp tục việc trả thù khủng khiếp, hay con đường của ông ta đã bị cắt đứt ở cái nghĩa địa khổng lồ vừa rồi? Liệu sóng nước có đem lại cho chúng ta tập bản thảo nói về cuộc đời Nê-mô không? Chiếc tàu bị mất tích có giúp cho ta biết được quốc tịch của thuyền trưởng Nê-mô không? Tôi hy vọng. Tôi còn nghĩ rằng, chiếc tàu ngầm vững vàng đó đã thắng được biển cả ngay trong vùng nước xoáy kinh khủng nhất, rằng tàu Nau-ti-lúx vẫn còn nguyên vẹn ngay ở chỗ rất nhiều tàu thuyền khác đã bị đắm. Nếu thực như vậy, và nếu thuyền trưởng Nê-mô còn sống ngoài đại dương mênh mông kia, thì cầu sao cho lòng căm thù trong trái tim tàn nhẫn đó dịu đi! Cầu sao cho những kỳ quan của thiên nhiên kia dập tắt đi ngọn lửa hận thù! Cầu sao cho quan tòa đáng sợ trong ông ta nhường chỗ cho nhà bác học hiền hòa tiếp tục công cuộc nghiên cứu đáy biển! Số phận của thuyền trưởng Nê-mô vừa kỳ lạ, vừa cao cả. Phải chăng tôi không hiểu ông ta? Phải chăng tôi đã không sống cuộc sống siêu nhiên của Nê-mô trong mười tháng trời? Sáu ngàn năm trước đây, kinh thánh đã đề ra câu hỏi:
"Ai đã đo được các vực thẳm?". Chỉ hai người trên đời này có quyền trả lời câu hỏi đó: thuyền trưởng Nê-mô và tôi.
----- HẾT -----
No comments:
Post a Comment